Website đang trong quá trình chạy thử nghiệm vì vậy không thể ghi nhận số tiền tài trợ.
Người dân và doanh nghiệp bản địa là hạt nhân của địa hạt thực. Họ không chỉ sản xuất mà còn kể câu chuyện về đất, cây, nghề, sản phẩm và giá trị sống động gắn liền với vùng đất mình sinh ra. Khi được trao quyền làm chủ dữ liệu và tài sản số, họ không chỉ bán sản phẩm mà còn bán niềm tin, nguồn gốc, và tín nhiệm. Nhờ đó, tài sản số được tích lũy theo thời gian và giá trị được chia sẻ qua các giao dịch trên nền tảng. Người dân từ chỗ làm thuê cho thị trường giờ đây trở thành người đồng sở hữu nền kinh tế bản địa.
D01-L12, khu A, Khu đô thị mới Dương Nội, Phường Dương Nội, Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
GPDKKD: 0110106915 do sở KH & ĐT TP.Hà Nội cấp ngày 05/09/2022
Liên kết, kết nối nguồn lực sẵn có trong xã hội.
Phân bổ lợi nhuận hài hoà, đảm bảo lợi ích các bên.
Địa hạt số là cấu trúc quy chiếu toàn phần trên không gian mạng – nơi các đơn vị địa lý 100x100 mét được định danh bằng hạt “xanh”, là các NFT mang tính xác thực, minh bạch và có thể giao dịch. Bản thể của địa hạt số là tập hợp các hạt “xanh” – đại diện cho không gian, dữ liệu và tiềm năng giá trị số hóa. Mỗi hạt “xanh” là một NFT duy nhất, liên kết trực tiếp với dữ liệu của địa hạt thực và thực số. Mô hình địa hạt số là sự phân mảnh không gian thành đơn vị số hóa có quyền sở hữu, quản trị, phát triển và chuyển nhượng. Phương pháp ứng dụng công nghệ Web3, NFT, Blockchain để định danh, ghi nhận giao dịch, và phân phối giá trị theo hợp đồng thông minh. Lý thuyết cơ bản gồm lý thuyết tài sản số, thiết kế hệ thống Web3, định danh không gian số và hợp đồng cộng đồng. Nhận thức ở đây là hiểu rằng không gian địa lý – văn hoá – dữ liệu có thể được số hoá thành tài sản số, từ đó mở ra phương thức phát triển kinh tế – văn hóa mới. Năng lực trung tâm là khả năng lập trình hệ thống, thiết kế token, phân phối giá trị và kiến tạo cộng đồng ảo gắn liền thực địa.
Địa hạt thực là không gian địa lý hữu hình – xã, phường, làng, tổ dân phố – nơi cư dân sống, làm việc và tương tác. Về bản thể, đây là thực thể xã hội – sinh thái – văn hóa cụ thể, có cộng đồng, tài nguyên và truyền thống. Mô hình của địa hạt thực là sự tổ chức cộng đồng theo mô hình kinh tế – văn hóa – quản trị đặc thù, như làng nghề, hợp tác xã, hội đồng già làng, hoặc chính quyền cơ sở. Phương pháp triển khai tập trung vào cách quy hoạch cộng đồng, khai thác tài nguyên bền vững và duy trì hệ sinh thái sống. Lý thuyết ở đây là lý thuyết phát triển bền vững, quản trị địa phương, kinh tế cộng đồng và bảo tồn văn hóa. Về mặt nhận thức, địa hạt thực được xem là nơi tích tụ bản sắc và năng lượng văn hóa – nơi “sống” của linh hồn cộng đồng. Năng lực trọng yếu là khả năng tự tổ chức, tự phục hồi và tự duy trì các giá trị sống và kinh tế.
Địa hạt thực số là sự gắn kết giữa địa hạt thực với hệ thống công nghệ số, đặc biệt là các công nghệ IoT, Blockchain, GPS và cảm biến truy xuất. Bản thể của địa hạt thực số là sự hòa nhập giữa không gian vật lý và hệ dữ liệu liên tục cập nhật. Mô hình là mạng lưới cảm biến – truy xuất – ghi nhận dữ liệu thời gian thực từ sản xuất, môi trường, tiêu dùng, giao thông... Phương pháp tiếp cận là triển khai thiết bị đầu cuối (cảm biến, mã QR, thiết bị truy xuất), tiêu chuẩn hoá dữ liệu và đồng bộ dữ liệu theo chuỗi giá trị. Lý thuyết nền tảng bao gồm lý thuyết Internet vạn vật (IoT), chuỗi cung ứng minh bạch, và hệ thống quản trị dữ liệu phân tán. Nhận thức ở cấp này là hiểu rằng giá trị thật phải đi cùng minh bạch, và dữ liệu là tài sản của cộng đồng. Năng lực cốt lõi là khả năng số hóa, kết nối và xác thực toàn diện các hoạt động trong địa hạt.
TẦM NHÌN : NƠI DỮ LIỆU SỐ CÙNG MÔI TRƯỜNG XANH MỞ RA KỶ NGUYÊN VÀNG CHO NHÂN LOẠI.
SỨ MỆNH : KIẾN TẠO NỀN TẢNG VÀ HỆ SINH THÁI SỐ VÀ “XANH” ĐỂ PHÁT TRIỂN SINH KẾ BẢN ĐỊA BỀN VỮNG
Không gian số Việt Nam hiện chưa có cấu trúc gắn với đơn vị hành chính cơ sở. Xã, phường – nơi gắn bó trực tiếp với người dân và hàng hóa bản địa – chưa được số hóa thành đơn vị định danh, khiến dữ liệu và dòng hàng hóa trở nên rời rạc, thiếu liên thông. Dữ liệu vẫn bị phân mảnh và chưa trở thành tư liệu sản xuất. Hiện nay, dữ liệu chủ yếu phục vụ báo cáo hành chính, chưa gắn với quyền sở hữu và khai thác sinh lời cho người tạo ra. Hàng hóa bản địa chưa được truy xuất đầy đủ và thiếu định danh số. Truy xuất nguồn gốc còn mang tính hình thức, không bảo đảm minh bạch, khiến hàng hóa Việt Nam ra thị trường với giá trị và niềm tin thấp do không có “hộ khẩu dữ liệu”.
GAIAlink xây dựng không gian số từ gốc – gắn với địa lý, dữ liệu và cộng đồng – theo nguyên tắc tương sinh. Thứ nhất, không gian số được quy hoạch theo đơn vị xã, phường, gọi là địa hạt số – nơi tích hợp dữ liệu doanh nghiệp, sản phẩm, tài nguyên… trên một cấu trúc đồng nhất. Thứ hai, dữ liệu được xem là tài sản – có định danh, có quyền sở hữu và khả năng sinh lời, chứ không chỉ là công cụ hành chính. Thứ ba, hàng hóa được truy xuất toàn trình, mang mã gốc, kết nối chuỗi giá trị và gắn liền với cộng đồng tạo ra giúp nâng cao niềm tin và giá trị gia tăng.
Số hóa toàn bộ 3.221 xã/phường thành các địa hạt số, chia nhỏ thành các ô 100m x 100m để quản trị dữ liệu, hợp đồng, token và sinh kế. Chuẩn hóa truy xuất toàn chuỗi cung ứng, đảm bảo minh bạch – xác thực – liên thông với các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế. Mỗi sản phẩm được truy xuất toàn trình, dữ liệu được mã hóa và định danh thành tài sản số, tích luỹ trên các đơn vị địa hạt số, cho phép cộng đồng tham gia sở hữu và phân phối giá trị gia tăng.Tổ chức cộng đồng vận hành theo mô hình DAO, dùng hợp đồng thông minh và chỉ số tín nhiệm iGC để xây dựng năng lực nội sinh và sinh kế bền vững.